Bản tin thuế tháng 06/2020

BẢN TIN THUẾ THÁNG 06/2020


MỤC LỤC BÀI VIẾT

I.Thông báo thời hạn nộp tờ khai thuế trong kỳ kê khai Tháng 5/2020
II. Đẩy mạnh triển khai Hóa đơn điện tử, Biên lai điện tử năm 2020
III.Trong giai đoạn dịch Covid-19: Sẽ chấp nhận C/O sử dụng chữ ký và con dấu điện tử
IV. Hà Nội: Giả danh cán bộ thuế để bán sách, mời tài trợ
V. Bộ Tài chính giảm một số phí, lệ phí hỗ trợ ngành hàng không
VI. Tổng cục Thuế tổ chức Hội thảo trực tuyến lấy ý kiến đóng góp về dự thảo Thông tư hướng dẫn về giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế theo Luật quản lý thuế số 38/2019/QH14­­
VII.Từ ngày 01/07/2020, áp dụng quy định mới về phí bảo vệ môi trường với nước thải
VIII. Đề xuất giảm 30% thuế TNDN phải nộp năm 2020 cho DN nhỏ và siêu nhỏ
IX. Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện gia hạn thời hạn nộp thuế, tiền thuê đất theo Nghị định số 41/2020/NĐ-CP
X. Tổng cục Thuế đã khẩn trương triển khai chức năng gửi giấy đề nghị gia hạn nộp thuế
XI. Sẽ đánh giá kỹ việc thu thuế đối với đất nông nghiệp để hoang hóa

I.Thông báo thời hạn nộp tờ khai thuế trong kỳ kê khai Tháng 5/2020

Bkav xin thông báo, do ngày cuối của kỳ kê khai Tháng 5/2020 trùng với ngày nghỉ (ngày thứ Bảy) nên theo Quy định tại khoản 4 điều 8 thông tư số 156/2013/TT-BTC “Trường hợp ngày cuối cùng của thời hạn giải quyết thủ tục hành chính trùng với ngày nghỉ theo quy định thì ngày cuối cùng của thời hạn được tính là ngày làm việc tiếp theo của ngày nghỉ đó”. Như vậy thời hạn nộp hồ sơ khai thuế như sau:

  • Hồ sơ khai thuế của kỳ kê khai Tháng 05/2020: hết hạn nộp vào thứ Hai ngày 22/06/2020.

Bkav xin trân trọng thông báo để Quý khách hàng được biết và thực hiện kê khai, nộp tờ khai đúng hạn. Bkav lưu ý Quý khách hàng nên kê khai, nộp tờ khai sớm trước thời gian hết hạn ít nhất từ 1 đến 2 ngày để tránh việc quá tải, không gửi được tờ khai.

Trong quá trình kê khai, nếu gặp vấn đề cần hỗ trợ, Quý Khách hàng vui lòng thực hiện theo 1 trong 4 cách dưới đây:

  • Cách 1: (cách nhanh nhất để được hỗ trợ hiệu quả): Chat trực tiếp tại link https://m.me/BkavIVAN hoặc https://zalo.me/4458938702350836836.

  • Cách 2: Gửi mail tới Trung tâm Chăm sóc khách hàng Bkav CA qua địa chỉ BkavCA@bkav.com với nội dung mà Bạn cần hỗ trợ, Bkav sẽ phản hồi lại Bạn trong thời gian sớm nhất.

  • Cách 3: Liên hệ tổng đài 1900 1854.

  • Cách 4: Xử lý vấn đề đang gặp phải theo các bước đơn giản trong bài hướng dẫn tại https://noptokhai.vn/tvan/huong-dan hoặc tìm kiếm thông tin hướng dẫn về nghiệp vụ, cách sử dụng phần mềm tại https://hotro.bkav.com/

Về Mục Lục

II. Đẩy mạnh triển khai Hóa đơn điện tử, Biên lai điện tử năm 2020

Ngày 27/5, UBND thành phố Hà Nội có văn bản số 1978/UBND-KT về việc đẩy mạnh triển khai Hóa đơn điện tử, Biên lai điện tử năm 2020 gửi các sở, ban, ngành thuộc thành phố, UBND các quận, huyện, thị xã.

Theo Thông báo số 130/TB-BCĐCQĐT ngày 17/2/2020, Ban Chỉ đạo xây dựng chính quyền điện tử thành phố Hà Nội đặt ra chỉ tiêu: “Trong năm 2020, phấn đấu 100% các đơn vị kinh doanh trên địa bàn, thuộc thẩm quyền quản lý của thành phố thực hiện giao dịch, thanh toán bằng hóa đơn điện tử...”.

Để hoàn thành chỉ tiêu trên, UBND thành phố yêu cầu các sở, ban, ngành, UBND các quận, huyện, thị xã phối hợp với cơ quan thuế các cấp tăng cường tuyên truyền, quán triệt nội dung và yêu cầu các doanh nghiệp đang hoạt động thuộc địa bàn, phạm vi đơn vị quản lý chủ động, tích cực áp dụng hóa đơn điện tử; đồng thời, phối hợp chặt chẽ và hỗ trợ cơ quan thuế đôn đốc doanh nghiệp trên địa bàn triển khai hóa đơn điện tử.

Các sở, ban, ngành, UBND các quận, huyện, thị xã chủ động đẩy mạnh việc áp dụng biên lai điện tử thu phí, lệ phí đối với tổ chức, cá nhân khi thực hiện các dịch vụ công giải quyết thủ tục hành chính tại đơn vị (tương tự hệ thống đã áp dụng triển khai tại Sở Kế hoạch và Đầu tư từ tháng 11/2017).

Sở Thông tin và Truyền thông làm đầu mối kiểm tra, giám sát việc phối hợp triển khai chương trình hóa đơn điện tử, biên lai điện tử giữa các đơn vị; báo cáo UBND thành phố kết quả hằng tháng.

(Nguồn: Hanoimoi.com.vn; Xem chi tiết tại đây)

Về Mục Lục

III.Trong giai đoạn dịch Covid-19: Sẽ chấp nhận C/O sử dụng chữ ký và con dấu điện tử

Bộ Tài chính đang dự thảo Thông tư quy định về việc nộp chứng từ chứng nhận xuất xứ đối với hàng hóa nhập khẩu (C/O) áp dụng trong giai đoạn dịch Covid-19 để phù hợp với thực tiễn quản lý và thương mại.

Dự thảo Thông tư đưa ra một số quy định quan trọng như: Thời điểm nộp chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa; hình thức chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa và thời hạn áp dụng. Theo đó, về thời điểm nộp chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa, dự kiến quy định: Người khai hải quan nộp chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa tại thời điểm làm thủ tục hải quan để áp dụng thuế suất ưu đãi đặc biệt.

Trường hợp chưa có chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa tại thời điểm làm thủ tục hải quan để áp dụng thuế suất ưu đãi đặc biệt, người khai hải quan khai bổ sung và nộp chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa trong thời hạn hiệu lực của chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa.

Người khai hải quan khai theo mức thuế suất thuế NK ưu đãi tối huệ quốc (MFN) hoặc thông thường. Khi khai, nộp bổ sung chứng từ chứng nhận xuất xứ trong thời hạn theo quy định, người khai hải quan khai bổ sung theo mức thuế suất ưu đãi đặc biệt tương ứng, được hoàn trả số tiền thuế chênh lệch đã nộp.

Về hình thức chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa dự thảo đưa ra các quy định cụ thể. Đối với hàng hóa nộp chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa để áp dụng thuế suất ưu đãi đặc biệt, cơ quan Hải quan chấp nhận C/O sử dụng chữ ký và con dấu điện tử với điều kiện cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu có thông báo về việc cấp C/O sử dụng chữ ký và con dấu điện tử và cung cấp trang điện tử tra cứu C/O hoặc hình thức tra cứu khác về C/O.

Cơ quan Hải quan kiểm tra tính hợp lệ của C/O trên trang điện tử của cơ quan cấp để áp dụng thuế suất ưu đãi đặc biệt theo quy định và in một bản C/O trên hệ thống do cơ quan cấp C/O cung cấp để lưu hồ sơ.

Bên cạnh đó, cơ quan Hải quan cũng chấp nhận bản chụp/bản scan C/O với điều kiện cơ quan có thẩm quyền nước xuất khẩu thông báo về việc sử dụng bản chụp/bản scan của bản chính C/O và cung cấp bản chụp/bản scan C/O hoặc hình thức kiểm tra khác cho cơ quan để xác định tính hợp lệ của C/O.

Người khai hải quan nộp bản chụp/bản scan C/O cho cơ quan Hải quan. Cơ quan Hải quan căn cứ bản chụp/bản scan hoặc hình thức kiểm tra khác do cơ quan cung cấp kiểm tra tính hợp lệ C/O để áp dụng thuế suất ưu đãi đặc biệt.

Về chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa phải nộp cho cơ quan Hải quan theo quy định tại khoản 2 Điều 4 thông tư 38/2018/TT-BTC, dự kiến Thông tư quy định: Người khai hải quan nộp bản chính C/O cho cơ quan Hải quan.

Trường hợp người khai hải quan chưa có bản chính C/O tại thời điểm làm thủ tục hải quan, người khai hải quan nộp bản chụp/bản scan C/O. Cơ quan Hải quan căn cứ bản chụp/bản scan, hồ sơ hải quan, thực tế hàng hóa, hành trình lô hàng và những thông tin khác có liên quan để kiểm tra xác định xuất xứ hàng hóa theo quy định.

Về thời hạn áp dụng, dự kiến áp dụng từ thời điểm xảy ra dịch Covid-19: Từ ngày 23/1/2020 cho đến khi Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc Tổ chức Y tế thế giới (WHO) công bố hết dịch Covid-19.

 (Nguồn: Baophapluat.vn; Xem chi tiết tại đây)

Về Mục Lục

IV. Hà Nội: Giả danh cán bộ thuế để bán sách, mời tài trợ

Theo phản ánh từ doanh nghiệp, vừa qua xuất hiện tình trạng giả danh cán bộ thuế gọi điện dọa nạt, ép buộc doanh nghiệp mua sách, tài liệu, ký hợp đồng tài trợ. Cục Thuế Hà Nội cho biết, đây là tình trạng lừa đảo, người nộp thuế hãy cảnh giác.

Theo Cục Thuế Hà Nội, thời gian qua có những cuộc điện thoại gọi đến doanh nghiệp tự xưng là cán bộ, công chức của Cục Thuế Hà Nội để mời chào, dụ dỗ, dọa nạt, ép buộc doanh nghiệp mua sách, tài liệu, ký hợp đồng tài trợ cho các hoạt động in, xuất bản sách, hoặc các ấn phẩm vinh danh doanh nghiệp, cẩm nang về thuế, lập quỹ hỗ trợ của ngành thuế…

Cục Thuế Hà Nội khẳng định, cơ quan này không có chủ trương trên. Đây là việc mạo danh, giả danh và là hành vi trái pháp luật, lợi dụng danh nghĩa cán bộ thuế, cơ quan thuế các cấp để trục lợi cá nhân, lừa đảo doanh nghiệp. Điều này đã và đang làm cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, gây tổn hại đến uy tín, hình ảnh của lãnh đạo, cán bộ công chức của cơ quan thuế.

Các hành vi trái pháp luật nêu trên có dấu hiệu của tội phạm, cần phải được ngăn chặn, phát hiện kịp thời và xử lý theo quy định của pháp luật.

Trao đổi với phóng viên TBTCO, một lãnh đạo Cục Thuế Hà Nội khẳng định cơ quan thuế không có chủ trương, cũng như không cử cán bộ gọi điện thoại, fax hay mang sách đến bán cho người nộp thuế. Tất cả các văn bản, tài liệu được cơ quan thuế cấp miễn phí và đăng tải đầy đủ trên website của cơ quan thuế tại địa chỉ: www.gdt.gov.vnhttp://hanoi.gdt.gov.vn. Các chương trình tập huấn của cơ quan thuế tổ chức đều miễn phí và sẽ gửi giấy mời tới người nộp thuế.

Do đó, Cục Thuế Hà Nội đề nghị người nộp thuế đề cao cảnh giác và tiếp tục phối hợp thông tin, phản ánh kịp thời về các hành vi lừa đảo tới cơ quan công an các cấp, hoặc Cục Thuế Hà Nội theo địa chỉ email: duongdaynong.han@gdt.gov.vn; hoặc báo về số điện thoại 024.351.464.520964.569.5690967.569.569 để có biện pháp xử lý kịp thời./.

(Nguồn: Gdt.gov.vn - Mục Tin tức - Tin bài về Thuế - Đăng ngày: 28/05/2020)

Về Mục Lục

V. Bộ Tài chính giảm một số phí, lệ phí hỗ trợ ngành hàng không

Ngày 27/05/2020, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 46/2020/TT-BTC, trong đó giảm phí, lệ phí đối với một số dịch vụ trong lĩnh vực hàng không.

Theo đó, từ 27/05/2020, tổ chức, cá nhân khai thác kết cấu hạ tầng cảng hàng không, sân bay cung cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay và kinh doanh cảng hàng không sẽ nộp phí bằng 90% mức thu quy định tại Điều 4 Thông tư số 247/2016/TT-BTC. Đồng thời, tổ chức, cá nhân khi ra, vào cảng hàng không, sân bay đối với chuyến bay của nước ngoài đến các cảng hàng không Việt Nam sẽ nộp phí, lệ phí bằng 90% mức thu quy định tại Điều 4 Thông tư số 194/2016/TT-BTC. 

Mặt khác, kể từ 27/05, tổ chức, cá nhân được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cung cấp dịch vụ đăng ký giao dịch bảo đảm đối với tàu bay và thẩm định cấp chứng chỉ, giấy phép, giấy chứng nhận trong hoạt động hàng không dân dụng; cấp giấy phép ra vào khu vực hạn chế tại cảng hàng không, sân bay sẽ nộp phí bằng 80% mức phí tương ứng quy định tại mục VI và mục VIII (trừ nội dung thu tại các số thứ tự: 4.1, 4.2, 4.3, 4.4, 4.5.1, 5, 6 của mục VI và số thứ tự 4 của mục VIII) phần A Biểu mức thu phí, lệ phí trong lĩnh vực hàng không ban hành kèm theo Thông tư số 193/2016/TT-BTC.

Thông tư số 46/2020/TT-BTC có hiệu lực từ ngày 27/05/2020 đến hết 31/12/2020. Từ 01/01/2021 các quy định nộp phí trên sẽ trở lại quy định trước ngày 27/05/2020. 

(Nguồn: Gdt.gov.vn - Mục Tin tức - Tin bài về Thuế - Đăng ngày: 28/05/2020)

Về Mục Lục

VI. Tổng cục Thuế tổ chức Hội thảo trực tuyến lấy ý kiến đóng góp về dự thảo Thông tư hướng dẫn về giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế theo Luật quản lý thuế số 38/2019/QH14­­

Ngày 27/05/2020, Tổng cục Thuế tổ chức Hội thảo trực tuyến lấy ý kiến đóng góp về nội dung dự thảo Thông tư hướng dẫn về giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế theo Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14

Luật quản lý thuế số 38/2019/QH14 được Quốc Hội khoá XIV đã thông qua ngày 13 tháng 06 năm 2019, hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2020. Ngày 26 tháng 7 năm 2019, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 936/QĐ-TTg về việc ban hành danh mục và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy định chi tiết thi hành các Luật được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 7; Theo đó, Bộ Tài chính được giao chủ trì xây dựng 05 Nghị định và 8 Thông tư quy định, hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật quản lý thuế số 38/2019/QH14. Nhằm đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế theo đúng quy định của pháp luật về thuế, thu khác thuộc ngân sách nhà nước, Luật quản lý thuế và Luật giao dịch điện tử, ngày hôm nay (27/5/2020) Tổng cục Thuế tổ chức Hội thảo trực tuyến lấy ý kiến tham gia nội dung Thông tư hướng dẫn về giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế theo Luật quản lý thuế số 38/2019/QH14.

Chủ trì và tham dự Hội thảo tại điểm cầu Văn phòng Tổng cục Thuế có Phó Tổng cục Trưởng Tổng cục Thuế Phi Văn Tuấn cùng các Vụ/đơn vị thuộc Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải Quan, Kho Bạc Nhà nước; Hội Tư vấn thuế Việt Nam; đại diện các công ty cung cấp phần mềm công nghệ thông tin, đại diện một số doanh nghiệp cung cấp dịch vụ T-VAN, đại diện một số ngân hàng, đại diện một số doanh nghiệp có mô hình hoạt động lớn; Ngoài ra, còn có 05 điểm cầu tại các Cục Thuế: Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, Nghệ An, Đà Nẵng và Bắc Ninh cùng tham dự hội thảo.

Phát biểu chủ trì Hội thảo, ông Phi Văn Tuấn nhấn mạnh tầm quan trọng và sự cần thiết phải xây dựng quy định về hướng dẫn về giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế và đề nghị toàn thể hội thảo tập trung tham gia, đóng góp ý kiến một số nội dung chính, trọng tâm như: Các quy định đối với các nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam nhưng có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác (Trong đó có các quy định về đăng ký giao dịch với cơ quan thuế bằng phương thức điện tử, Cổng giao dịch điện tử); Quy định về mã định danh khoản phải nộp; Về hình thức giao dịch điện tử, có hay không bao gồm hình thức giao dịch qua tổ chức T-VAN; Về thời điểm xác nhận nộp hồ sơ thuế điện tử để tính thời gian giải quyết hồ sơ thuế; Về thời điểm nhận hồ sơ nộp thuế trong trường hợp đến hạn nộp thuế mà hệ thống hạ tầng kỹ thuật gặp sự cố, chưa khắc phục được, người nộp thuế phải nộp hồ sơ bản giấy trực tiếp tại cơ quan thuế hoặc qua đường bưu chính; Về quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế; Về đăng ký giao dịch điện tử với cơ quan thuế bằng phương thức điện tử đối với cá nhân đã có mã số thuế và sử dụng mã xác thực giao dịch điện tử; Về xử phạt vi phạm hành chính bằng phương thức điện tử; Về giao dịch điện tử trong nộp thuế, hoàn thuế; Về việc gửi kết quả đăng ký thuế cho NNT trong trường hợp NNT đăng ký nhận kết quả qua đường bưu chính; Về đăng ký giao dịch với cơ quan thuế bằng phương thức điện tử,...

Tại Hội thảo, đại diện các điểm cầu của các Cục Thuế Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, Nghệ An, Đà Nẵng, Bắc Ninh và đại diện các Vụ, đơn vị thuộc Bộ Tài chính, đại diện các doanh nghiệp, ngân hàng, tổ chức T-VAN đã tham gia phát biểu, thảo luận tập trung vào các nội dung chính của dự thảo thông tư. Tiếp thu ý kiến các đại biểu, Ban soạn thảo sẽ nghiên cứu, hoàn thiện thông tư để sớm trình Bộ Tài chính xem xét, ban hành.

 (Nguồn: Gdt.gov.vn - Mục Tin tức - Tin bài về Thuế - Đăng ngày: 27/05/2020)

Về Mục Lục

VII.Từ ngày 01/07/2020, áp dụng quy định mới về phí bảo vệ môi trường với nước thải

Có hiệu lực từ ngày 01/07/2020, Nghị định số 53/2020/NĐ-CP, ngày 05/05/2020 của Chính phủ quy định phí bảo vệ môi trường đối với nước thải đang nhận được sự quan tâm của xã hội.

Nghị định số 53/2020/NĐ-CP đã quy định rõ các đối tượng chịu phí, tổ chức thu phí, người nộp phí, các trường hợp miễn phí, mức thu phí, xác định số phí phải nộp, kê khai nộp phí, quản lý và sử dụng phí bảo vệ môi trường đối với nước thải. Cụ thể:

Đối tượng chịu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải

Nghị định này là nước thải công nghiệp thải vào nguồn tiếp nhận nước thải theo quy định pháp luật và nước thải sinh hoạt, trừ trường hợp miễn thu phí theo quy định tại Nghị định này.

Nước thải công nghiệp là nước thải từ các nhà máy, địa điểm, cơ sở sản xuất, chế biến (sau đây gọi chung là cơ sở) của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, bao gồm: Cơ sở sản xuất, chế biến: Nông sản, lâm sản, thủy sản, thực phẩm, rượu, bia, nước giải khát, thuốc lá;

Cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm quy mô trang trại theo quy định pháp luật về chăn nuôi; cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm; Cơ sở nuôi trồng thủy sản thuộc diện phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc kế hoạch bảo vệ môi trường theo quy định; Cơ sở sản xuất thủ công nghiệp trong các làng nghề; Cơ sở: Thuộc da, tái chế da, dệt, nhuộm, may mặc;

Cơ sở: Khai thác, chế biến khoáng sản; Cơ sở sản xuất: Giấy, bột giấy, nhựa, cao su; linh kiện, thiết bị điện, điện tử; Cơ sở: Cơ khí, luyện kim, gia công kim loại, chế tạo máy và phụ tùng; Cơ sở: Sơ chế phế liệu, phá dỡ tàu cũ, vệ sinh súc rửa tàu, xử lý chất thải;

Cơ sở: Hóa chất cơ bản, phân bón, dược phẩm, thuốc bảo vệ thực vật, vật liệu xây dựng, văn phòng phẩm, đồ gia dụng; Nhà máy cấp nước sạch, nhà máy điện; Hệ thống xử lý nước thải tập trung tại khu đô thị; Hệ thống xử lý nước thải tập trung tại khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, cảng cá, khu công nghệ cao và các khu khác; Cơ sở sản xuất, chế biến khác có phát sinh nước thải từ hoạt động sản xuất, chế biến.

Nước thải sinh hoạt là nước thải từ hoạt động của: Hộ gia đình, cá nhân; Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức khác (gồm cả trụ sở điều hành, chi nhánh, văn phòng của các cơ quan, đơn vị, tổ chức này), trừ các cơ sở sản xuất, cơ sở chế biến thuộc các cơ quan, đơn vị, tổ chức này; Cơ sở: Rửa ô tô, rửa xe máy, sửa chữa ô tô, sửa chữa xe máy; Cơ sở khám, chữa bệnh; nhà hàng, khách sạn; cơ sở đào tạo, nghiên cứu; Cơ sở kinh doanh, dịch vụ khác.

Tổ chức thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải 

Nghị định quy định, Sở Tài nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp của các cơ sở thuộc diện quản lý trên địa bàn. Căn cứ tình hình thực tế quản lý, Sở Tài nguyên và Môi trường báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường tổ chức thực hiện thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải của các cơ sở trên địa bàn.

Cùng với đó, Tổ chức cung cấp nước sạch thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng nguồn nước sạch do mình cung cấp.

Ủy ban nhân dân phường, thị trấn thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt của tổ chức, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh trên địa bàn tự khai thác nước để sử dụng.

Đối tượng nộp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải

Theo Nghị định, người nộp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thải nước thải thuộc đối tượng chịu phí nêu trên.

Trường hợp các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thải nước thải vào hệ thống xử lý nước thải tập trung và trả tiền dịch vụ xử lý nước thải cho đơn vị quản lý, vận hành hệ thống xử lý nước thải tập trung theo cơ chế giá dịch vụ thì đơn vị quản lý, vận hành hệ thống xử lý nước thải tập trung là người nộp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải theo quy định tại Nghị định này. Trừ trường hợp Nước thải của các hệ thống xử lý nước thải tập trung khu đô thị (theo quy định tại Nghị định số 80/2014/NĐ-CP ngày 06/8/2014 của Chính phủ về thoát nước và xử lý nước thải) đã xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường theo quy định trước khi thải vào nguồn tiếp nhận.

Trường hợp các cơ sở quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định này sử dụng nguồn nước sạch từ tổ chức cung cấp nước sạch cho hoạt động sản xuất, chế biến thì chủ cơ sở phải nộp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp (không phải nộp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt).

Nghị định này cũng quy định các trường hợp miễn phí bảo vệ môi trường đối với nước thải trong các trường hợp sau: Nước xả ra từ các nhà máy thủy điện; Nước biển dùng vào sản xuất muối xả ra; Nước thải sinh hoạt của: Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân ở các xã; Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân ở các phường, thị trấn chưa có hệ thống cấp nước sạch; Hộ gia đình, cá nhân không kinh doanh ở các phường, thị trấn đã có hệ thống cấp nước sạch tự khai thác nước sử dụng.

Cùng với đó là nước làm mát (theo quy định pháp luật về bảo vệ môi trường) không trực tiếp tiếp xúc với các chất gây ô nhiễm, có đường thoát riêng; Nước thải từ nước mưa tự nhiên chảy tràn; Nước thải từ các phương tiện đánh bắt thủy sản của ngư dân. Trừ trường hợp nước thải của các hệ thống xử lý nước thải tập trung khu đô thị (theo quy định tại Nghị định số 80/2014/NĐ-CP ngày 06/8/2014 về thoát nước và xử lý nước thải) đã xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường theo quy định trước khi thải vào nguồn tiếp nhận.

Các địa phương (hoặc khu đô thị) triển khai thực hiện thu giá dịch vụ thoát nước theo quy định tại Nghị định số 80/2014/NĐ-CP thì không thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải theo quy định tại Nghị định này.

Các trường hợp được miễn phí 

Nghị định cũng quy định 7 trường hợp được miễn phí bảo vệ môi trường đối với nước thải gồm: Nước xả ra từ các nhà máy thủy điện; Nước biển dùng vào sản xuất muối xả ra; Nước thải sinh hoạt của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân ở các xã; tổ chức, hộ gia đình, cá nhân ở các phường, thị trấn chưa có hệ thống cấp nước sạch; hộ gia đình, cá nhân không kinh doanh ở các phường, thị trấn đã có hệ thống cấp nước sạch tự khai thác nước sử dụng;

Nước làm mát (theo quy định pháp luật về bảo vệ môi trường) không trực tiếp tiếp xúc với các chất gây ô nhiễm, có đường thoát riêng; Nước thải từ nước mưa tự nhiên chảy tràn; Nước thải từ các phương tiện đánh bắt thủy sản của ngư dân; Nước thải của các hệ thống xử lý nước thải tập trung khu đô thị (theo quy định tại Nghị định số 80/2014/NĐ-CP về thoát nước và xử lý nước thải) đã xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường theo quy định trước khi thải vào nguồn tiếp nhận.

Mức phí bảo vệ môi trường đối với nước thải

Mức phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt là 10% trên giá bán của 1m3 nước sạch chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng. Trường hợp cần áp dụng mức phí cao hơn, Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định mức phí cụ thể cao hơn đối với từng đối tượng chịu phí.

Mức phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp, Nghị định quy định, cơ sở có tổng lượng nước thải trung bình trong năm dưới 20 m3/ngày (24 giờ) áp dụng phí cố định tính theo khối lượng nước thải (không áp dụng mức phí biến đổi) là 1,5 triệu đồng/năm, đến hết năm 2020. 

(Nguồn: Gdt.gov.vn - Mục Tin tức - Tin bài về Thuế - Đăng ngày: 25/05/2020)

Về Mục Lục

VIII. Đề xuất giảm 30% thuế TNDN phải nộp năm 2020 cho DN nhỏ và siêu nhỏ

Để kịp thời có chính sách, giải pháp hỗ trợ DN nhỏ và siêu nhỏ vượt qua khó khăn do tác động của dịch bệnh Covid-19 và áp dụng ngay trong năm 2020, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ trình Quốc hội ban hành Nghị quyết giảm thuế TNDN phải nộp của năm 2020 cho DN nhỏ và siêu nhỏ, trong đó giảm 30% thuế TNDN cho DN nhỏ và siêu nhỏ.

Tuy nhiên, để đảm bảo đúng mục tiêu, đối tượng, phù hợp với quy định của Luật Hỗ trợ DNNVV và thực tế áp dụng chính sách hỗ trợ đối với nhóm DN quy mô nhỏ, Bộ Tài chính đề xuất giảm 30% số thuế TNDN phải nộp năm 2020 đối với DN có tổng doanh thu năm 2020 không quá 3 tỷ đồng và có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm 2020 không quá 10 người; DN có tổng doanh thu năm 2020 không quá 50 tỷ đồng và có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm 2020 không quá 100 người (thuộc nhóm doanh nghiệp nhỏ).

Theo đánh giá sơ bộ của Bộ Tài chính, việc thực hiện giải pháp này sẽ giảm thu NSNN của năm 2020 khoảng 15.840 tỷ đồng. Tuy nhiên, chính sách này sẽ góp phần hỗ trợ các DN vượt qua khó khăn do tác động của dịch Covid-19, cũng như tạo điều kiện cho các DN nhỏ, siêu nhỏ tích tụ vốn để phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo tiền đề giúp DN nhỏ, siêu nhỏ chuyển đổi thành DN có quy mô lớn hơn để đóng góp lại cho NSNN thời gian tiếp theo.

(Nguồn: Gdt.gov.vn - Mục Tin tức - Tin bài về Thuế - Đăng ngày: 22/05/2020)

Về Mục Lục

IX. Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện gia hạn thời hạn nộp thuế, tiền thuê đất theo Nghị định số 41/2020/NĐ-CP

Nhằm thực hiện đúng tinh thần Nghị định số 41/2020/NĐ-CP hỗ trợ người nộp thuế tháo gỡ khó khăn do dịch bệnh Covid-19, Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện gia hạn thời hạn nộp thuế, tiền thuê đất theo Nghị định số 41/2020/NĐ-CP. Theo đó, yêu cầu Kho bạc nhà nước các tỉnh chưa thực hiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng (trong thời gian gia hạn) trên số tiền thanh toán khối lượng các công trình, hạng mục công trình xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, các khoản thanh toán từ nguồn ngân sách nhà nước cho các công trình xây dựng cơ bản của các dự án sử dụng vốn ODA thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng đối với trường hợp nhà thầu thuộc đối tượng được gia hạn nộp thuế thuế giá trị gia tăng.

Để hỗ trợ, hướng dẫn chi tiết thực hiện quy định gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất cho các đối tượng bị ảnh hưởng của dịch Covid-19 theo Nghị định số 41/2020/NĐ-CP ngày 8/4/2020 của Chính phủ, ngày 20/5/2020 Bộ Tài chính ban hành Công văn số 5977/BTC-TCT hướng dẫn một số nội dung liên quan đến gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế giá trị gia tăng quy định tại Điều 3 Nghị định số 41/2020/NĐ-CP.

Gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp

Theo đó, Bộ Tài chính hướng dẫn đối với số tiền thuế thu nhập doanh nghiệp còn phải nộp theo quyết toán của kỳ tính thuế năm 2019 được gia hạn nộp tối đa bằng 20% tổng số thuế phải nộp cả năm theo quyết toán. Riêng đối với trường hợp người nộp thuế khai bổ sung hồ sơ quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2019 theo quy định của Luật Quản lý thuế làm tăng số thuế thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp và gửi đến cơ quan thuế trước khi hết thời hạn nộp thuế được gia hạn thì số thuế được gia hạn tối đa bằng 20% tổng số thuế thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp cả năm theo hồ sơ quyết toán khai bổ sung. Và trường hợp người nộp thuế qua thanh tra, kiểm tra quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2019 có số thuế phải nộp tăng thêm so với số thuế người nộp thuế đã khai với cơ quan thế và được cơ quan thuế ban hành kết luận trước khi hết thời hạn nộp thuế được gia hạn nộp thuế thì tổng số thuế được gia hạn tối đa bằng 20% số thuế phải nộp cả năm theo quyết toán căn cứ vào kết quả thanh tra, kiểm tra.

Bộ Tài chính cũng lưu ý đối với trường hợp người nộp thuế có kỳ tính thuế thu nhập doanh nghiệp theo năm tài chính không trùng năm dương lịch thì thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp được gia hạn xác định phù hợp với kỳ tính thuế thu nhập doanh nghiệp của người nộp thuế. Thời gian gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là 05 tháng, kể từ ngày kết thúc thời hạn nộp hồ sơ quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp của kỳ tính thuế năm 2019.

Gia hạn nộp thuế giá trị gia tăng

Công văn của Bộ Tài chính nêu rõ số thuế giá trị gia tăng phải nộp của doanh nghiệp, tổ chức là đối tượng được gia hạn nộp thuế, tiền thuê đất quy định tại Điều 2 Nghị định số 41/2020/NĐ-CP được gia hạn phải nộp quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định số 41/2020/NĐ-CP bao gồm số thuế giá trị gia tăng tại trụ sở chính và số thuế giá trị gia tăng phải nộp tại địa phương nơi có hoạt động kinh doanh xây dựng vãng lai ngoại tỉnh, xây dựng công trình liên tỉnh.

Nhằm thực hiện đúng tinh thần Nghị định số 41/2020/NĐ-CP hỗ trợ người nộp thuế tháo gỡ khó khăn do dịch bệnh Covid-19, Bộ Tài chính yêu cầu Kho bạc nhà nước các tỉnh chưa thực hiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng (trong thời gian gia hạn) trên số tiền thanh toán khối lượng các công trình, hạng mục công trình xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, các khoản thanh toán từ nguồn ngân sách nhà nước cho các công trình xây dựng cơ bản của các dự án sử dụng vốn ODA thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng đối với trường hợp nhà thầu thuộc đối tượng được gia hạn nộp thuế giá trị gia.

 (Nguồn: Gdt.gov.vn - Mục Tin tức - Tin bài về Thuế - Đăng ngày: 21/05/2020)

Về Mục Lục

X. Tổng cục Thuế đã khẩn trương triển khai chức năng gửi giấy đề nghị gia hạn nộp thuế

Đó là thông tin được bà Nguyễn Thu Trà, Phó Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin, Tổng cục Thuế cho biết tại Hội nghị trực tuyến “Giới thiệu Cổng dịch vụ công quốc gia và các lợi ích dành cho doanh nghiệp” do Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ tổ chức ngày 19/5. 

Theo bà Nguyễn Thu Trà, ngay sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 41/2020/NĐ-CP về gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất hỗ trợ cho doanh nghiệp và các đối tượng chịu tác động bởi dịch Covid-19, Tổng cục Thuế đã khẩn trương triển khai chức năng gửi giấy đề nghị gia hạn trên Hệ thống thuế điện tử (eTax) để doanh nghiệp và cá nhân có tài khoản trên eTax có thể khai điện tử giấy đề nghị gia hạn nộp. 

Ngày 28/4/2020, Tổng cục Thuế hoàn thành việc tích hợp các chức năng này lên Cổng dịch vụ công quốc gia, tạo thêm một kênh cho doanh nghiệp và cá nhân thực hiện nộp giấy đề nghị gia hạn nộp thuế.

Bà Nguyễn Thu Trà cho biết, với 99,9% doanh nghiệp đang hoạt động đã thực hiện khai thuế điện tử, việc nộp đề nghị gia hạn nộp thuế qua điện tử hoàn toàn không xa lạ với doanh nghiệp. Đến ngày 18/5 đã có 92.988 doanh nghiệp gửi đề nghị gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất qua kênh điện tử.

Với cá nhân, để nộp đề nghị gia hạn nộp thuế điện tử trên Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế, cá nhân cần có tài khoản đăng ký với cơ quan thuế. Hiện nay có trên 83.701 hộ/cá nhân kinh doanh đã có tài khoản khai thuế điện tử trên Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế và Cổng dịch vụ công quốc gia. 

Việc đăng ký tài khoản qua Cổng dịch vụ công quốc gia có hỗ trợ xác thực thông tin của cá nhân (qua thông tin thuê bao điện thoại hay số sổ bảo hiểm xã hội…), do đó cá nhân có thể đăng ký tài khoản từ xa. Đây là điểm thuận lợi để cá nhân đăng ký tài khoản trên Cổng dịch vụ công quốc gia, nộp giấy đề nghị gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất. Cá nhân chỉ cần tạo tài khoản trên Cổng là có thể đăng nhập một lần và thực hiện chức năng nộp đề nghị gia hạn nộp thuế.

Hiện tại có trên 12.095 cá nhân đã nộp đề nghị gia hạn điện tử. Ngành thuế đang tiếp tục tuyên truyền, khuyến khích các cá nhân nộp đề nghị gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất qua phương thức điện tử.

(Nguồn: Gdt.gov.vn - Mục Tin tức - Tin bài về Thuế - Đăng ngày: 20/05/2020)

Về Mục Lục

XI. Sẽ đánh giá kỹ việc thu thuế đối với đất nông nghiệp để hoang hóa

Trình bày tờ trình dự án nghị quyết về miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp (SDĐNN) tại phiên họp Quốc hội ngày 25/5, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết, Chính phủ đề xuất tiếp tục thực hiện miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp (SDĐNN) như quy định hiện hành cho giai đoạn 2021 - 2025. Đồng thời, sẽ nghiên cứu, đánh giá kỹ việc thu thuế đối với đất để hoang hóa.

Miễn, giảm hơn 7.000 tỷ đồng tiền thuế mỗi năm

Theo tờ trình, chính sách thuế SDĐNN đang được miễn đến hết ngày 31/12/2020 (trừ diện tích đất được Nhà nước giao cho tổ chức, đơn vị sự nghiệp và các đơn vị khác quản lý, nhưng không trực tiếp sử dụng để sản xuất nông nghiệp, mà giao cho tổ chức, cá nhân khác nhận thầu theo hợp đồng để sản xuất nông nghiệp). Sau 20 năm thực hiện, tổng số thuế SDĐNN miễn, giảm giai đoạn 2003 - 2010 trung bình khoảng 3.268,5 tỷ đồng/năm; giai đoạn từ 2011 - 2016 trung bình khoảng 6.308,3 tỷ đồng/năm; giai đoạn 2017 - 2018 và dự kiến đến hết năm 2020 khoảng 7.438,5 tỷ đồng/năm. Chính sách miễn, giảm thuế SDĐNN là giải pháp quan trọng góp phần thực hiện chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong từng thời kỳ. Chính vì vậy, việc tiếp tục thực hiện miễn thuế SDĐNN như quy định hiện hành cho giai đoạn 2021 - 2025 là cần thiết. Đồng thời, phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam và thông lệ quốc tế. 

Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết, thực tế quá trình SDĐNN cho thấy, có tình trạng đất nông nghiệp được giao cho hộ nông dân, nhưng không được canh tác, hoặc canh tác không hiệu quả, gây nên tình trạng hoang hóa, lãng phí đất. Tuy nhiên, pháp luật về đất đai cũng chưa có quy định thế nào là đất hoang hóa. Ngoài ra, việc để đất đai hoang hóa còn do nhiều nguyên nhân khách quan như thiên tai, dịch bệnh, hiệu quả sản xuất nông nghiệp không cao, thiếu hụt nguồn lao động... Từ những phân tích trên, Chính phủ cho rằng, các đối tượng được miễn thuế SDĐNN như hiện hành là phù hợp. Tuy nhiên, Chính phủ sẽ nghiên cứu, đánh giá kỹ việc thu thuế đối với đất để hoang hóa, khi nghiên cứu đề xuất, hoàn thiện chính sách pháp luật về đất đai nói chung và chính sách thuế liên quan đến đất đai nói riêng. Việc tiếp tục miễn thuế SDĐNN đến hết năm 2025 sẽ không làm giảm thu NSNN, do đây là chính sách đang được thực hiện trên thực tế. 

Đồng tình kéo dài thời gian thực hiện nghị quyết

Tại báo cáo thẩm tra, Ủy ban Tài chính ngân sách của Quốc hội (UBTCNS) nhất trí với Chính phủ về sự cần thiết tiếp tục ban hành chính sách miễn thuế SDĐNN cho giai đoạn 2021 - 2025, đặc biệt trong bối cảnh dịch Covid-19 và thiên tai tác động xấu đến kinh tế xã hội. Đồng thời, chính sách thuế SDĐNN cần được xem xét, đánh giá trong tổng thể các chính sách chung đối với Luật Đất đai, Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp và các loại thuế, khoản thu khác đang áp dụng đối với đất. Hiện nay, các cơ quan của Chính phủ đang nghiên cứu xây dựng Luật Thuế tài sản, bao gồm cả nội dung thay cho thuế SDĐNN hiện hành. Trong khi chưa có tổng kết, đánh giá và nghiên cứu một cách tổng thể để xây dựng chính sách về thuế SDĐNN một cách phù hợp, UBTCNS nhất trí với đề nghị của Chính phủ trình Quốc hội ban hành nghị quyết cho phép kéo dài thời gian miễn, giảm thuế SDĐNN trong 5 năm tiếp theo.

Thảo luận về dự thảo nghị quyết, đa số đại biểu Quốc hội đồng tình với đề xuất kéo dài thời gian miễn, giảm thuế SDĐNN đến hết năm 2025. Đại biểu Nguyễn Ngọc Phương (ĐBQH tỉnh Quảng Bình) nêu ý kiến, mặc dù nền nông nghiệp đã có nhiều bước phát triển vượt bậc, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức nên vẫn cần phải kéo dài thời gian thực hiện nghị quyết. Tuy nhiên, phải quản lý công khai, minh bạch quá trình thực hiện, giảm thuế đúng đối tượng, tránh sử dụng sai mục đích, không được để lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm gây nên tình trạng tham nhũng, lãng phí đất nông nhiệp. Chính phủ cần tiếp tục miễn thuế SDĐNN cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, kể cả đất đã được thừa kế, trao tặng, nhận chuyển, hoặc đã nhận, giao khoán ổn định của hợp tác xã, nông trường quốc doanh để sản xuất nông nghiệp và góp phần thành lập hợp tác xã. 

Theo đại biểu Phạm Văn Hòa (ĐBQH tỉnh Đồng Tháp), các địa phương cần thực hiện công tác quản lý đất nông nghiệp chặt chẽ, chi tiết đến từng cá nhân, hộ gia đình mua đất nông nghiệp, nhưng không trực tiếp sản xuất. Ngoài ra, những tổ chức Nhà nước được giao đất mà không trực tiếp sử dụng, để hoang hóa, hoặc giao lại cho cá nhân, tổ chức khác nhận thầu theo hợp đồng sản xuất nông nghiệp để hưởng chênh lệch, thì thực hiện thu hồi đất theo quy định của Luật Đất đai. Trong thời gian chưa thu hồi, thì phải nộp 100% thuế SDĐNN và bị phạt theo pháp luật về thuế. Một số ý kiến khác đề nghị Quốc hội ban hành nghị quyết mới về miễn thuế SDĐNN, có quy định đối tượng được thụ hưởng rõ ràng để dễ dàng quản lý và bảo đảm ổn định đối với người nông dân, góp phẩn thúc đẩy nền nông nghiệp phát triển. Thời hạn thực hiện nghị quyết mới về miễn thuế SDĐNN có thể đến 31/12/2030.

Tại phiên thảo luận, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng đã giải trình, làm rõ một số nội dung. Đối với ý kiến của một số đại biểu cho rằng, không nên sửa Nghị quyết số 55/2010/QH12 về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp đến hết năm 2020 và Nghị quyết số 28/2016/QH14 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 55/2010/QH12, mà ban hành một nghị quyết mới thay thế, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết, cơ quan soạn thảo sẽ phối hợp với các cơ quan hữu quan nghiên cứu, báo cáo lại các đại biểu. Tuy nhiên, việc kéo dài thêm 5 năm sẽ phù hợp với quy định của Khoản 2, Điều 15 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đó là kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần luật, nghị quyết của Quốc hội đáp ứng các yêu cầu cấp bách về phát triển kinh tế xã hội. 

Theo Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng, Chính phủ đã giao Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường đánh giá, rà soát một số chính sách, trong đó có chính sách về thuế SDĐNN. Đồng thời, Bộ Tài chính đang tổng kết, đánh giá lại tất cả các luật có liên quan về thuế để chuẩn bị trình Quốc hội trong thời gian tới. Hệ thống luật mới về thuế sẽ đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế trong thời kỳ đổi mới, trong đó có đề xuất luật thuế mới là thuế tài sản. Ngoài ra, các ý kiến thảo luận của đại biểu Quốc hội về những nội dung khác sẽ được cơ quan soạn thảo và cơ quan thẩm tra tiếp thu đầy đủ, để hoàn thiện dự án nghị quyết trình Quốc hội. 

(Nguồn: Gdt.gov.vn - Mục Tin tức - Tin bài về Thuế - Đăng ngày: 28/05/2020)

Về Mục Lục

 

Đăng nhận xét

0 Nhận xét